Nam giới nhiễm HIV có thể có con khỏe mạnh, chỉ cần kiểm soát được tải lượng vi rút trong quan hệ tình dục.
“Tôi có thể thành hôn và có những đứa con khỏe mạnh ko?” là một câu hỏi phổ thông của đàn ông nhiễm HIV. Các chuyên gia khẳng định rằng những bệnh nhân này có thể có một gia đình hạnh phúc và có con với người phụ nữ họ mến thương một cách an toàn và khỏe mạnh. Tất cả là nhờ sự điều trị hiệu quả của liệu pháp kháng virus (Anti-retroviral therapy) và sự hỗ trợ từ lang y sản khoa.
Một nghiên cứu quy mô lớn ở Pháp đã khảo sát các cặp vợ chồng chưa thành hôn (chồng nhiễm HIV, vợ ko nhiễm). Trong đó người chồng đang duy trì điều trị ARV bằng thuốc ARV và đã kiểm soát tốt tải lượng vi rút (HIV RNA
– Nhóm một: Ko vận dụng giải pháp can thiệp, hai vợ chồng sinh hoạt tình dục phổ biến, ko sử dụng bao cao su. Về cơ bản, nhóm này thích hiệu quả dự phòng của việc điều trị như phòng ngừa.
– Nhóm 2: Quan hệ tình dục giới hạn ngày rụng trứng nhờ thử nước tiểu để tính ngày rụng trứng. Phương pháp này tạm gọi là quan hệ tình dục ko gián đoạn, vì người dùng sẽ luân phiên có bao cao su và ko có bao cao su vào ngày rụng trứng.
– Nhóm 3: Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cho người vợ.
– Nhóm 4: Vận dụng đồng thời cả PrEP và phương pháp quan hệ gián đoạn.
– Nhóm 5: Can thiệp hỗ trợ sinh sản bằng cách rửa sạch tinh dịch rồi bơm vào buồng tử cung (Intrauterine insemination), tức là thụ tinh nhân tạo. Nghiên cứu ko thực hiện thụ tinh trong ống thử.
Việc phân phân thành 5 nhóm nhằm mục tiêu nhận định và so sánh hiệu quả dự phòng trong việc giảm truyền nhiễm cho vợ và con nếu thụ thai, hiệu quả thụ thai thành công và chi phí giữa các phương pháp dự phòng trên. .
Sau một năm theo dõi, nhóm nghiên cứu đã rút ra kết quả như sau:
Về hiệu quả dự phòng truyền nhiễm HIV cho vợ và con
Nguy cơ tích lũy lây truyền HIV cho vợ và con sau một năm giảm dần. Trong nhóm một, chỉ điều trị cho nam giới, 5,4 trong số 10.000 phụ nữ mang thai nhiễm HIV từ chồng của họ, và 0,014 trong số 10.000 phụ nữ nhiễm HIV cho con của họ. Ở nhóm điều trị PrEP, tỉ lệ tuần tự là 1,8 và 0,005. Nhóm quan hệ tính toán ngày là 0,9 và 0,002. Nhóm liên kết PrEP và mối quan hệ ngày là 0,3 và 0,001. Riêng nhóm thụ tinh nhân tạo ko ghi nhận trường hợp nào truyền nhiễm.
Về khả năng thụ thai
Khả năng tmang thai tự nhiên được ghi nhận vào khoảng 14,6% cho mỗi chu kỳ (tháng). Trong trường hợp hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, tỉ lệ thành công tăng gần gấp đôi, khoảng 27,1%.
Về chi phí và hiệu quả về chi phí
Hiệu quả chi phí là phần chi phí được phân bổ cho một mục tiêu can thiệp cụ thể, trong trường hợp này là hiệu quả phòng ngừa và thụ thai. Trong đó, phương pháp tháng ngày có chi phí thấp nhất, khoảng 786 euro cho một cặp vợ chồng / năm), điều trị bằng PrEP là 3.836 euro, thụ tinh nhân tạo là 3.206 euro. Trong lúc đó, nếu PrEP và hò hẹn được liên kết, chi phí hiệu quả giảm xuống khoảng 1.324 Euro cho mỗi cặp đôi.
Với phương pháp phân tích so sánh trên, nghiên cứu đã đưa ra chứng cớ về sự an toàn, hiệu quả của việc thụ thai và chênh lệch chi phí giữa các phương pháp giúp nam giới nhiễm HIV có con. Không những thế, nó còn giúp giảm truyền nhiễm cho vợ và thai nhi.
Tóm tắt sơ bộ kết quả nghiên cứu trên và so sánh với tình hình Việt Nam, các chuyên gia đưa ra nhận định như sau:
– Dù sử dụng phương pháp nào thì điều trị bằng thuốc kháng HIV cho nam giới vẫn là then chốt của việc can thiệp giúp họ có con. Kiểm soát tốt tải lượng vi rút trong máu của người chồng là tiền đề cho tất cả các can thiệp hỗ trợ khác nhằm phục vụ mục tiêu sinh con.
Vì vậy, trước lúc quyết định có con, các cặp vợ chồng cần đảm bảo mục tiêu điều trị ARV là kiểm soát tốt tải lượng vi rút. Bước tiếp theo mới là yêu cầu sự hỗ trợ của lang y điều trị và lang y sản – phụ khoa để có những can thiệp bổ trợ khác. “Điều trị như một giải pháp phòng ngừa” là một thông điệp quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Các chứng cớ khoa học khác đã xác nhận hiệu quả ngăn ngừa nhiễm trùng của ART.
– Phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống thử có hiệu quả dự phòng cao, tỉ lệ thụ thai thành công cũng vượt quá. Tuy nhiên, chi phí rất cao và cần nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại. Không những thế, khả năng tiếp cận hạn chế (chỉ một số trung tâm có dịch vụ này) cũng là rào cản đối với người bệnh.
– Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm cũng là một phương pháp hữu ích, đặc thù là lúc liên kết với phương pháp xác định niên đại. Trong kết quả nghiên cứu, việc liên kết hai phương pháp này sẽ giảm chi phí và tăng hiệu quả. Đây có thể coi là một giải pháp can thiệp vượt trội so với các phương pháp khác.
Tại Việt Nam, điều trị bằng PrEP chưa được Bộ Y tế đưa vào hướng dẫn về chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV. Trong xu thế ngày nay, phương pháp này sẽ sớm được cập nhật thành các hướng dẫn mới.
– Cách giao phối để tính ngày rụng trứng khá đơn giản, ít tốn kém, tuy hiệu quả ko tuyệt đối nhưng vẫn có trị giá trong việc phòng chống truyền nhiễm. Nếu xét về mức thu nhập của người có H tại Việt Nam thì phương pháp này có thể chấp thu được, các ông chồng cần tuân thủ tốt điều trị ARV cho mình trước lúc quyết định vận dụng.
Nguồn: VnExpress
Nam giới nhiễm HIV vẫn có thể có con khỏe mạnh
Hình Ảnh về: Nam giới nhiễm HIV vẫn có thể có con khỏe mạnh
Video về: Nam giới nhiễm HIV vẫn có thể có con khỏe mạnh
Wiki về Nam giới nhiễm HIV vẫn có thể có con khỏe mạnh
Nam giới nhiễm HIV vẫn có thể có con khỏe mạnh -
Nam giới nhiễm HIV có thể có con khỏe mạnh, chỉ cần kiểm soát được tải lượng vi rút trong quan hệ tình dục.
"Tôi có thể thành hôn và có những đứa con khỏe mạnh ko?" là một câu hỏi phổ thông của đàn ông nhiễm HIV. Các chuyên gia khẳng định rằng những bệnh nhân này có thể có một gia đình hạnh phúc và có con với người phụ nữ họ mến thương một cách an toàn và khỏe mạnh. Tất cả là nhờ sự điều trị hiệu quả của liệu pháp kháng virus (Anti-retroviral therapy) và sự hỗ trợ từ lang y sản khoa.
Một nghiên cứu quy mô lớn ở Pháp đã khảo sát các cặp vợ chồng chưa thành hôn (chồng nhiễm HIV, vợ ko nhiễm). Trong đó người chồng đang duy trì điều trị ARV bằng thuốc ARV và đã kiểm soát tốt tải lượng vi rút (HIV RNA
- Nhóm một: Ko vận dụng giải pháp can thiệp, hai vợ chồng sinh hoạt tình dục phổ biến, ko sử dụng bao cao su. Về cơ bản, nhóm này thích hiệu quả dự phòng của việc điều trị như phòng ngừa.
- Nhóm 2: Quan hệ tình dục giới hạn ngày rụng trứng nhờ thử nước tiểu để tính ngày rụng trứng. Phương pháp này tạm gọi là quan hệ tình dục ko gián đoạn, vì người dùng sẽ luân phiên có bao cao su và ko có bao cao su vào ngày rụng trứng.
- Nhóm 3: Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cho người vợ.
- Nhóm 4: Vận dụng đồng thời cả PrEP và phương pháp quan hệ gián đoạn.
- Nhóm 5: Can thiệp hỗ trợ sinh sản bằng cách rửa sạch tinh dịch rồi bơm vào buồng tử cung (Intrauterine insemination), tức là thụ tinh nhân tạo. Nghiên cứu ko thực hiện thụ tinh trong ống thử.
Việc phân phân thành 5 nhóm nhằm mục tiêu nhận định và so sánh hiệu quả dự phòng trong việc giảm truyền nhiễm cho vợ và con nếu thụ thai, hiệu quả thụ thai thành công và chi phí giữa các phương pháp dự phòng trên. .
Sau một năm theo dõi, nhóm nghiên cứu đã rút ra kết quả như sau:
Về hiệu quả dự phòng truyền nhiễm HIV cho vợ và con
Nguy cơ tích lũy lây truyền HIV cho vợ và con sau một năm giảm dần. Trong nhóm một, chỉ điều trị cho nam giới, 5,4 trong số 10.000 phụ nữ mang thai nhiễm HIV từ chồng của họ, và 0,014 trong số 10.000 phụ nữ nhiễm HIV cho con của họ. Ở nhóm điều trị PrEP, tỉ lệ tuần tự là 1,8 và 0,005. Nhóm quan hệ tính toán ngày là 0,9 và 0,002. Nhóm liên kết PrEP và mối quan hệ ngày là 0,3 và 0,001. Riêng nhóm thụ tinh nhân tạo ko ghi nhận trường hợp nào truyền nhiễm.
Về khả năng thụ thai
Khả năng tmang thai tự nhiên được ghi nhận vào khoảng 14,6% cho mỗi chu kỳ (tháng). Trong trường hợp hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, tỉ lệ thành công tăng gần gấp đôi, khoảng 27,1%.
Về chi phí và hiệu quả về chi phí
Hiệu quả chi phí là phần chi phí được phân bổ cho một mục tiêu can thiệp cụ thể, trong trường hợp này là hiệu quả phòng ngừa và thụ thai. Trong đó, phương pháp tháng ngày có chi phí thấp nhất, khoảng 786 euro cho một cặp vợ chồng / năm), điều trị bằng PrEP là 3.836 euro, thụ tinh nhân tạo là 3.206 euro. Trong lúc đó, nếu PrEP và hò hẹn được liên kết, chi phí hiệu quả giảm xuống khoảng 1.324 Euro cho mỗi cặp đôi.
Với phương pháp phân tích so sánh trên, nghiên cứu đã đưa ra chứng cớ về sự an toàn, hiệu quả của việc thụ thai và chênh lệch chi phí giữa các phương pháp giúp nam giới nhiễm HIV có con. Không những thế, nó còn giúp giảm truyền nhiễm cho vợ và thai nhi.
Tóm tắt sơ bộ kết quả nghiên cứu trên và so sánh với tình hình Việt Nam, các chuyên gia đưa ra nhận định như sau:
- Dù sử dụng phương pháp nào thì điều trị bằng thuốc kháng HIV cho nam giới vẫn là then chốt của việc can thiệp giúp họ có con. Kiểm soát tốt tải lượng vi rút trong máu của người chồng là tiền đề cho tất cả các can thiệp hỗ trợ khác nhằm phục vụ mục tiêu sinh con.
Vì vậy, trước lúc quyết định có con, các cặp vợ chồng cần đảm bảo mục tiêu điều trị ARV là kiểm soát tốt tải lượng vi rút. Bước tiếp theo mới là yêu cầu sự hỗ trợ của lang y điều trị và lang y sản - phụ khoa để có những can thiệp bổ trợ khác. “Điều trị như một giải pháp phòng ngừa” là một thông điệp quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Các chứng cớ khoa học khác đã xác nhận hiệu quả ngăn ngừa nhiễm trùng của ART.
- Phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống thử có hiệu quả dự phòng cao, tỉ lệ thụ thai thành công cũng vượt quá. Tuy nhiên, chi phí rất cao và cần nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại. Không những thế, khả năng tiếp cận hạn chế (chỉ một số trung tâm có dịch vụ này) cũng là rào cản đối với người bệnh.
- Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm cũng là một phương pháp hữu ích, đặc thù là lúc liên kết với phương pháp xác định niên đại. Trong kết quả nghiên cứu, việc liên kết hai phương pháp này sẽ giảm chi phí và tăng hiệu quả. Đây có thể coi là một giải pháp can thiệp vượt trội so với các phương pháp khác.
Tại Việt Nam, điều trị bằng PrEP chưa được Bộ Y tế đưa vào hướng dẫn về chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV. Trong xu thế ngày nay, phương pháp này sẽ sớm được cập nhật thành các hướng dẫn mới.
- Cách giao phối để tính ngày rụng trứng khá đơn giản, ít tốn kém, tuy hiệu quả ko tuyệt đối nhưng vẫn có trị giá trong việc phòng chống truyền nhiễm. Nếu xét về mức thu nhập của người có H tại Việt Nam thì phương pháp này có thể chấp thu được, các ông chồng cần tuân thủ tốt điều trị ARV cho mình trước lúc quyết định vận dụng.
Nguồn: VnExpress
[rule_{ruleNumber}] [box type=”note” align=”” class=”” width=””]
Nam giới nhiễm HIV có thể có con khỏe mạnh, chỉ cần kiểm soát được tải lượng vi rút trong quan hệ tình dục.
“Tôi có thể thành hôn và có những đứa con khỏe mạnh ko?” là một câu hỏi phổ thông của đàn ông nhiễm HIV. Các chuyên gia khẳng định rằng những bệnh nhân này có thể có một gia đình hạnh phúc và có con với người phụ nữ họ mến thương một cách an toàn và khỏe mạnh. Tất cả là nhờ sự điều trị hiệu quả của liệu pháp kháng virus (Anti-retroviral therapy) và sự hỗ trợ từ lang y sản khoa.
Một nghiên cứu quy mô lớn ở Pháp đã khảo sát các cặp vợ chồng chưa thành hôn (chồng nhiễm HIV, vợ ko nhiễm). Trong đó người chồng đang duy trì điều trị ARV bằng thuốc ARV và đã kiểm soát tốt tải lượng vi rút (HIV RNA
– Nhóm một: Ko vận dụng giải pháp can thiệp, hai vợ chồng sinh hoạt tình dục phổ biến, ko sử dụng bao cao su. Về cơ bản, nhóm này thích hiệu quả dự phòng của việc điều trị như phòng ngừa.
– Nhóm 2: Quan hệ tình dục giới hạn ngày rụng trứng nhờ thử nước tiểu để tính ngày rụng trứng. Phương pháp này tạm gọi là quan hệ tình dục ko gián đoạn, vì người dùng sẽ luân phiên có bao cao su và ko có bao cao su vào ngày rụng trứng.
– Nhóm 3: Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cho người vợ.
– Nhóm 4: Vận dụng đồng thời cả PrEP và phương pháp quan hệ gián đoạn.
– Nhóm 5: Can thiệp hỗ trợ sinh sản bằng cách rửa sạch tinh dịch rồi bơm vào buồng tử cung (Intrauterine insemination), tức là thụ tinh nhân tạo. Nghiên cứu ko thực hiện thụ tinh trong ống thử.
Việc phân phân thành 5 nhóm nhằm mục tiêu nhận định và so sánh hiệu quả dự phòng trong việc giảm truyền nhiễm cho vợ và con nếu thụ thai, hiệu quả thụ thai thành công và chi phí giữa các phương pháp dự phòng trên. .
Sau một năm theo dõi, nhóm nghiên cứu đã rút ra kết quả như sau:
Về hiệu quả dự phòng truyền nhiễm HIV cho vợ và con
Nguy cơ tích lũy lây truyền HIV cho vợ và con sau một năm giảm dần. Trong nhóm một, chỉ điều trị cho nam giới, 5,4 trong số 10.000 phụ nữ mang thai nhiễm HIV từ chồng của họ, và 0,014 trong số 10.000 phụ nữ nhiễm HIV cho con của họ. Ở nhóm điều trị PrEP, tỉ lệ tuần tự là 1,8 và 0,005. Nhóm quan hệ tính toán ngày là 0,9 và 0,002. Nhóm liên kết PrEP và mối quan hệ ngày là 0,3 và 0,001. Riêng nhóm thụ tinh nhân tạo ko ghi nhận trường hợp nào truyền nhiễm.
Về khả năng thụ thai
Khả năng tmang thai tự nhiên được ghi nhận vào khoảng 14,6% cho mỗi chu kỳ (tháng). Trong trường hợp hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, tỉ lệ thành công tăng gần gấp đôi, khoảng 27,1%.
Về chi phí và hiệu quả về chi phí
Hiệu quả chi phí là phần chi phí được phân bổ cho một mục tiêu can thiệp cụ thể, trong trường hợp này là hiệu quả phòng ngừa và thụ thai. Trong đó, phương pháp tháng ngày có chi phí thấp nhất, khoảng 786 euro cho một cặp vợ chồng / năm), điều trị bằng PrEP là 3.836 euro, thụ tinh nhân tạo là 3.206 euro. Trong lúc đó, nếu PrEP và hò hẹn được liên kết, chi phí hiệu quả giảm xuống khoảng 1.324 Euro cho mỗi cặp đôi.
Với phương pháp phân tích so sánh trên, nghiên cứu đã đưa ra chứng cớ về sự an toàn, hiệu quả của việc thụ thai và chênh lệch chi phí giữa các phương pháp giúp nam giới nhiễm HIV có con. Không những thế, nó còn giúp giảm truyền nhiễm cho vợ và thai nhi.
Tóm tắt sơ bộ kết quả nghiên cứu trên và so sánh với tình hình Việt Nam, các chuyên gia đưa ra nhận định như sau:
– Dù sử dụng phương pháp nào thì điều trị bằng thuốc kháng HIV cho nam giới vẫn là then chốt của việc can thiệp giúp họ có con. Kiểm soát tốt tải lượng vi rút trong máu của người chồng là tiền đề cho tất cả các can thiệp hỗ trợ khác nhằm phục vụ mục tiêu sinh con.
Vì vậy, trước lúc quyết định có con, các cặp vợ chồng cần đảm bảo mục tiêu điều trị ARV là kiểm soát tốt tải lượng vi rút. Bước tiếp theo mới là yêu cầu sự hỗ trợ của lang y điều trị và lang y sản – phụ khoa để có những can thiệp bổ trợ khác. “Điều trị như một giải pháp phòng ngừa” là một thông điệp quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Các chứng cớ khoa học khác đã xác nhận hiệu quả ngăn ngừa nhiễm trùng của ART.
– Phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống thử có hiệu quả dự phòng cao, tỉ lệ thụ thai thành công cũng vượt quá. Tuy nhiên, chi phí rất cao và cần nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại. Không những thế, khả năng tiếp cận hạn chế (chỉ một số trung tâm có dịch vụ này) cũng là rào cản đối với người bệnh.
– Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm cũng là một phương pháp hữu ích, đặc thù là lúc liên kết với phương pháp xác định niên đại. Trong kết quả nghiên cứu, việc liên kết hai phương pháp này sẽ giảm chi phí và tăng hiệu quả. Đây có thể coi là một giải pháp can thiệp vượt trội so với các phương pháp khác.
Tại Việt Nam, điều trị bằng PrEP chưa được Bộ Y tế đưa vào hướng dẫn về chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV. Trong xu thế ngày nay, phương pháp này sẽ sớm được cập nhật thành các hướng dẫn mới.
– Cách giao phối để tính ngày rụng trứng khá đơn giản, ít tốn kém, tuy hiệu quả ko tuyệt đối nhưng vẫn có trị giá trong việc phòng chống truyền nhiễm. Nếu xét về mức thu nhập của người có H tại Việt Nam thì phương pháp này có thể chấp thu được, các ông chồng cần tuân thủ tốt điều trị ARV cho mình trước lúc quyết định vận dụng.
Nguồn: VnExpress
#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh
[rule_3_plain]#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh
Nam giới nhiễm HIV có thể có những đứa con khỏe mạnh, chỉ cần khống chế tải lượng virus trong quá trình quan hệ.
“Tôi có thể lấy vợ và sinh con khỏe mạnh ko?” là câu hỏi phổ thông của những người đàn ông nhiễm HIV. Các chuyên gia khẳng định những bệnh nhân này hoàn toàn có thể có một gia đình hạnh phúc và có con cùng người phụ nữ mình mến thương một cách an toàn khỏe mạnh. Tất cả là nhờ vào hiệu quả điều trị của liệu pháp kháng virus (Anti-retroviral therapy) và sự hỗ trợ từ lang y chuyên khoa sản.
Một nghiên cứu quy mô lớn ở Pháp khảo sát trên các cặp đôi bất xứng (chồng nhiễm HIV, vợ ko nhiễm). Trong đó người chồng đang duy trì điều trị kháng virus bằng ARV và đã khống chế tốt tải lượng virus (HIV RNA
– Nhóm một: Ko vận dụng giải pháp can thiệp nào, hai vợ chồng sinh hoạt tình dục phổ biến, ko sử dụng bao cao su. Về cơ bản, nhóm này thụ hưởng hiệu quả dự phòng của phương pháp điều trị như là giải pháp dự phòng (treatment as prevention).
– Nhóm 2: Quan hệ giới hạn vào ngày rụng trứng nhờ xét nghiệm nước tiểu để tính ngày rụng trứng. Phương pháp này tạm gọi là quan hệ ko bao ngắt quãng, vì người sử dụng sẽ quan hệ xen kẽ có bao cao su và ko bao cao su vào cận ngày trứng rụng.
– Nhóm 3: Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (Pre-exposure prophylaxis, PrEP) cho người vợ.
– Nhóm 4: Vận dụng song hành cả PrEP và phương pháp quan hệ ngắt quãng.
– Nhóm 5: Can thiệp hỗ trợ sinh sản bằng rửa tinh dịch rồi bơm vào tử cung (Intrauterine insemination), tức là thụ tinh nhân tạo. Nghiên cứu ko thực hiện thụ tinh trong ống thử.
Việc phân chia ra 5 nhóm nhằm mục tiêu nhận định và so sánh hiệu quả dự phòng trong việc giảm truyền nhiễm cho người vợ và em nhỏ nếu thụ thai, hiệu quả thụ thai thành công và chi phí giữa các giải pháp dự phòng kể trên.
Sau một năm theo dõi, nhóm nghiên cứu rút kết quả như sau:
Về hiệu quả dự phòng truyền nhiễm HIV cho người vợ và em nhỏ
Nguy cơ truyền nhiễm HIV sang ngườivợ và em nhỏ tích lũy sau một năm giảm dần. Ở nhóm một chỉ điều trị cho người đàn ông thì có 5,4 trong 10.000 thai phụ bị truyền nhiễm HIV từ chồng, 0,014 trong 10.000 trường hợp truyền nhiễm cho con. Nhóm điều trị PrEP, tỉ lệ tương ứng là 1,8 và 0,005. Nhóm quan hệ tính ngày là 0,9 và 0,002. Nhóm liên kết PrEP và quan hệ tính ngày là 0,3 và 0,001. Riêng nhóm thụ tinh nhân tạo ko ghi nhận trường hợp truyền nhiễm nào.
Về khả năng thụ thai
Khả năng thụ thai tự nhiên ghi nhận vào khoảng 14,6% cho mỗi chu kỳ (tháng). Trong trường hợp có hỗ trợ sinh sản bằng thụ tinh nhân tạo, tỉ lệ thành công tăng lên gần gấp đôi, khoảng 27,1%.
Về chi phí và chi phí hiệu quả
Chi phí hiệu quả là phần chi phí phân bổ cho một mục tiêu can thiệp cụ thể, trong trường hợp này là hiệu quả dự phòng và thụ thai. Trong đó, phương pháp quan hệ tính ngày cho chi phí thấp nhất, khoảng 786 Euro cho một cặp đôi mỗi năm), điều trị PrEP là 3.836 Euro, thụ tinh nhân tạo là 3.206 Euro. Trong lúc đó nếu liên kết PrEP và quan hệ tính ngày, chi phí hiệu quả giảm xuống còn khoảng 1.324 Euro mỗi cặp đôi.
Với phương pháp phân tích so sánh như trên, nghiên cứu đã cho thấy chứng cớ về độ an toàn, hiệu quả thụ thai và chênh lệch chi phí giữa các phương pháp tạo điều kiện cho nam giới nhiễm HIV có thể có con. Không những thế còn giúp giảm truyền nhiễm cho vợ và thai nhi.
Tổng kết sơ bộ kết quả nghiên cứu trên và đối chiếu với tình hình Việt Nam, các chuyên gia đưa ra nhận định như sau:
– Dùng phương pháp nào, điều trị kháng HIV cho người đàn ông vẫn là then chốt trong quá trình can thiệp để giúp họ có con. Khống chế tốt tải lượng virus trong máu người chồng là tiền đề cho mọi lựa chọn can thiệp hỗ trợ khác nhằm phục vụ cho mục tiêu có em nhỏ.
Do vậy trước lúc quyết định có con, hai vợ chồng cần đảm bảo đạt được mục tiêu của điều trị ARV làkhống chế tốt tải lượng virus. Bước kế tiếp mới là yêu cầu sự hỗ trợ của lang y điều trị và lang y sản phụ khoa cho các can thiệp bổ trợ khác. “Điều trị như là một giải pháp dự phòng” là thông điệp quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Các chứng cớ khoa học khác đã khẳng định hiệu quả dự phòng truyền nhiễm của điều trị ARV.
– Phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh ống thử cho hiệu quả dự phòng cao, tỉ lệ thụ thai thành công cũng vượt trôi. Tuy vậy chi phí lại rất cao và yêu cầu nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại. Kế bên đóhạn chế về khả năng tiếp cận (chỉ vàitrung tâm có dịch vụ này) cũng là một rào cản đối với người bệnh.
– Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm cũng là phương pháp hữu dụng, đặc thù lúc liên kết với phương pháp quan hệ tính ngày. Trong kết quả nghiên cứu, liên kết 2 phương pháp này sẽ làm giảm chi phí và tăng hiệu quả. Đây có thể được xem là can thiệp ưu việt so với các phương pháp khác.
Ở Việt Nam, điều trị PrEP chưa được đưa vào hướng dẫn của Bộ Y tế về chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV. Trong xu thế ngày nay, phương pháp này sẽ nhanh chóng được cập nhật vào hướng dẫn mới.
– Phương pháp quan hệ tính ngày rụng trứng khá đơn giản, ít tốn kém, dù hiệu quả ko tuyệt đối, song vẫn có trị giá dự phòng truyền nhiễm. Nếu xét trên mặt bằng thu nhập của người có H ở Việt Nam, phương pháp này có tính chấp thu được, người chồng cần tuân thủ tốt điều trị ARV cho bản thân trước lúc đi tới quyết định vận dụng.
Nguồn: VnExpress
#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh
[rule_2_plain]#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh
[rule_2_plain]#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh
[rule_3_plain]Nguồn: sex-shoponline.net
Xem thêm Video clip hót nhất hôm nay: Video Clip Hót
Xem những sản phần đồ chơi tình dục hót nhất 2022: shop đồ chơi tình dục
#Nam #giới #nhiễm #HIV #vẫn #có #thể #có #con #khỏe #mạnh