Tuyến tiền liệt (TLT) là một cơ quan nằm bên dưới bọng đái, sau xương mu, trước trực tràng và xung quanh niệu đạo của tuyến tiền liệt. Bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Vì tuyến tiền liệt nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy lúc đưa ngón tay vào lỗ hậu (thuật ngữ y khoa còn gọi là “khám trực tràng”). TLT có hình dạng nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4cm, cao 3cm, dày 2,5cm, khối lượng trung bình 15-20 gam ở người lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ tuổi từ 40 tới 50 tuổi có tỉ lệ phì đại tuyến tiền liệt khoảng 90%.
Công dụng của tuyến tiền liệt là gì?
Công dụng chính của tuyến tiền liệt là tiết ra tinh dịch và đổ vào niệu đạo trong xoang tuyến tiền liệt. Dịch âm đạo có màu trắng sữa với độ pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo) nên có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho tới lúc thụ tinh. Lượng dịch do tuyến tiền liệt tiết ra chiếm khoảng 30% lượng dịch tiết ra trong mỗi lần giao phối. Dịch bạch huyết chứa nhiều axit xitric, ion canxi, nhiều loại men đông máu, pro-fibrinolysin, prostaglandin. Các enzym đông máu của TLT sẽ tác động lên fibrinogen để làm đông nhẹ tinh dịch trong đường sinh dục nữ, do đó giữ cho tinh trùng ở gần cổ tử cung. Sau 15 – 30 phút, tinh dịch sẽ bị loãng trở lại nhờ men fibrinolysin có trong dịch tinh và tinh trùng hoạt động trở lại. Prostaglandin của tinh dịch cũng như dịch của túi tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động ống dẫn trứng giúp tinh trùng vận chuyển trong đường sinh dục nữ và chất dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động tình dục.
Các bệnh thường gặp của TLT
Viêm tụy cấp tính: Nhiễm trùng đường tiết niệu thường do một số cùng loại vi khuẩn gây nhiễm trùng bọng đái gây ra. Các vi khuẩn đó là E.Coli, Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể lây lan từ đường máu tới tuyến tiền liệt, hoặc từ cơ quan phụ cận, hoặc do quá trình sinh thiết tuyến tiền liệt ko được đảm bảo vô trùng. Bệnh thường gặp trong tuần tuần trăng mật giữa chú rể và cô dâu do sinh hoạt tình dục quá độ. Bệnh phát khởi đột ngột với biểu thị sốt, ớn lạnh, đau tức vùng thắt lưng và tầng sinh môn (vùng giữa bộ phận sinh dục ngoài và lỗ hậu), kèm theo tiểu khó, tiểu nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, tiểu máu có thể xuất hiện ở đầu bãi, cuối bãi hoặc toàn bãi. Thầy thuốc sẽ yêu cầu xét nghiệm nước tiểu để tìm tế bào bạch huyết cầu và vi khuẩn để giúp chọn loại kháng sinh thích hợp. Thông thường, thuốc kháng sinh được dùng dưới dạng fluoroquinolon (ciprofloxacin), sau đó là thuốc chống viêm như serratiopeptidase. Bệnh nhân được ngơi nghỉ, truyền nhiều nước và dùng thuốc giảm đau. Nếu bệnh nhân bị suy giảm miễn nhiễm, chẳng hạn như đang điều trị hóa chất, hoặc bị nhiễm HIV / AIDS, bệnh nhân cần được nhập viện ngay ngay lập tức.
Viêm tụy mãn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với thời đoạn cấp tính. Người bệnh ko sốt, ko đau lúc xuất tinh và tinh dịch có máu. Đi tiểu khó, đi tiểu vài lần trong ngày, đôi lúc có dịch chảy ra từ đầu dương vật. Điều trị bằng thuốc kháng sinh như fluoroquinolon (ciprofloxacin, levofloxacin, moxifloxacin) liên kết với thuốc chống viêm ko steroid như diclofenac.
Phì đại lành tính của tuyến tiền liệt: Ở trẻ em, TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì, TLT mở màn tăng trưởng kích thước tối đa ở tuổi 20 và giữ nguyên kích thước cho tới tuổi 50. Từ 50 tuổi trở đi, tuyến tiền liệt phì đại theo thời kì và gây phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Bệnh tăng trưởng từ từ hoặc đột ngột với các biến chứng như nhiễm trùng, bí tiểu, suy thận. Phì đại lành tính tuyến tiền liệt ko trở thành ung thư nhưng có thể là ung thư xâm lấn với tỉ lệ 10 – 25%. Ở thời đoạn đầu, người bệnh thường có nhu cầu đi tiểu đêm, nhất là thời khắc từ nửa đêm tới sáng sớm. Sau đó, đi tiểu cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn có cảm giác nước tiểu chưa hết nhưng mà vẫn còn trong bọng đái. Cuối cùng là rò rỉ nước tiểu hoặc bí tiểu. Nhiễm trùng là một biến chứng thường gặp. Khám trực tràng thấy một khối to, mềm hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chuẩn xác cần phải siêu âm. Ở thời đoạn đầu, các lang y thường cho điều trị nội khoa bằng các loại thuốc như tadenan, xatral, crila (chiết xuất từ cây TNHC). Lúc bệnh chuyển sang thời đoạn nặng hoặc có biến chứng thì cần phải can thiệp ngoại khoa. Hiện nay, phẫu thuật được nhiều lang y ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường mồm.
Ung thư TLT: Lúc bị ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào ung thư tăng trưởng rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosterone (hormone sinh dục nam). Trái lại, sự tăng trưởng tế bào ung thư sẽ bị ức chế nếu tinh hoàn bị cắt bỏ. Ung thư tuyến tụy ít phổ quát hơn so với phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Các triệu chứng bao gồm: tiểu đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn cương dương… Chỉ 1/3 số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Ung thư cổ tử cung thường di căn tới xương và các hạch bạch huyết. Lúc đó, người bệnh thường bị đau nhức xương, thường ở các đốt sống, xương chậu hoặc xương sườn. Ung thư cổ tử cung di căn tới đốt sống có thể chèn lấn tủy sống, gây yếu chân, đại tiểu tiện ko tự chủ. Để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu mức PSA trên 40 nanogram / ml thì nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, mức PSA có thể tăng lên lúc bị nhiễm vi khuẩn, lúc khối u TLT trên 60g. Vì vậy, để chẩn đoán xác định, cần sinh thiết tuyến tiền liệt lúc thăm khám trực tràng phát hiện một khối to, cứng, bề mặt ko phẳng phiu với các triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo thời đoạn bệnh, di căn nhưng mà lang y sẽ cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
Bệnh của tiền liệt tuyến
Hình Ảnh về: Bệnh của tiền liệt tuyến
Video về: Bệnh của tiền liệt tuyến
Wiki về Bệnh của tiền liệt tuyến
Bệnh của tiền liệt tuyến -
Tuyến tiền liệt (TLT) là một cơ quan nằm bên dưới bọng đái, sau xương mu, trước trực tràng và xung quanh niệu đạo của tuyến tiền liệt. Bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Vì tuyến tiền liệt nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy lúc đưa ngón tay vào lỗ hậu (thuật ngữ y khoa còn gọi là “khám trực tràng”). TLT có hình dạng nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4cm, cao 3cm, dày 2,5cm, khối lượng trung bình 15-20 gam ở người lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ tuổi từ 40 tới 50 tuổi có tỉ lệ phì đại tuyến tiền liệt khoảng 90%.
Công dụng của tuyến tiền liệt là gì?
Công dụng chính của tuyến tiền liệt là tiết ra tinh dịch và đổ vào niệu đạo trong xoang tuyến tiền liệt. Dịch âm đạo có màu trắng sữa với độ pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo) nên có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho tới lúc thụ tinh. Lượng dịch do tuyến tiền liệt tiết ra chiếm khoảng 30% lượng dịch tiết ra trong mỗi lần giao phối. Dịch bạch huyết chứa nhiều axit xitric, ion canxi, nhiều loại men đông máu, pro-fibrinolysin, prostaglandin. Các enzym đông máu của TLT sẽ tác động lên fibrinogen để làm đông nhẹ tinh dịch trong đường sinh dục nữ, do đó giữ cho tinh trùng ở gần cổ tử cung. Sau 15 - 30 phút, tinh dịch sẽ bị loãng trở lại nhờ men fibrinolysin có trong dịch tinh và tinh trùng hoạt động trở lại. Prostaglandin của tinh dịch cũng như dịch của túi tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động ống dẫn trứng giúp tinh trùng vận chuyển trong đường sinh dục nữ và chất dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động tình dục.
Các bệnh thường gặp của TLT
Viêm tụy cấp tính: Nhiễm trùng đường tiết niệu thường do một số cùng loại vi khuẩn gây nhiễm trùng bọng đái gây ra. Các vi khuẩn đó là E.Coli, Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể lây lan từ đường máu tới tuyến tiền liệt, hoặc từ cơ quan phụ cận, hoặc do quá trình sinh thiết tuyến tiền liệt ko được đảm bảo vô trùng. Bệnh thường gặp trong tuần tuần trăng mật giữa chú rể và cô dâu do sinh hoạt tình dục quá độ. Bệnh phát khởi đột ngột với biểu thị sốt, ớn lạnh, đau tức vùng thắt lưng và tầng sinh môn (vùng giữa bộ phận sinh dục ngoài và lỗ hậu), kèm theo tiểu khó, tiểu nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, tiểu máu có thể xuất hiện ở đầu bãi, cuối bãi hoặc toàn bãi. Thầy thuốc sẽ yêu cầu xét nghiệm nước tiểu để tìm tế bào bạch huyết cầu và vi khuẩn để giúp chọn loại kháng sinh thích hợp. Thông thường, thuốc kháng sinh được dùng dưới dạng fluoroquinolon (ciprofloxacin), sau đó là thuốc chống viêm như serratiopeptidase. Bệnh nhân được ngơi nghỉ, truyền nhiều nước và dùng thuốc giảm đau. Nếu bệnh nhân bị suy giảm miễn nhiễm, chẳng hạn như đang điều trị hóa chất, hoặc bị nhiễm HIV / AIDS, bệnh nhân cần được nhập viện ngay ngay lập tức.
Viêm tụy mãn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với thời đoạn cấp tính. Người bệnh ko sốt, ko đau lúc xuất tinh và tinh dịch có máu. Đi tiểu khó, đi tiểu vài lần trong ngày, đôi lúc có dịch chảy ra từ đầu dương vật. Điều trị bằng thuốc kháng sinh như fluoroquinolon (ciprofloxacin, levofloxacin, moxifloxacin) liên kết với thuốc chống viêm ko steroid như diclofenac.
Phì đại lành tính của tuyến tiền liệt: Ở trẻ em, TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì, TLT mở màn tăng trưởng kích thước tối đa ở tuổi 20 và giữ nguyên kích thước cho tới tuổi 50. Từ 50 tuổi trở đi, tuyến tiền liệt phì đại theo thời kì và gây phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Bệnh tăng trưởng từ từ hoặc đột ngột với các biến chứng như nhiễm trùng, bí tiểu, suy thận. Phì đại lành tính tuyến tiền liệt ko trở thành ung thư nhưng có thể là ung thư xâm lấn với tỉ lệ 10 - 25%. Ở thời đoạn đầu, người bệnh thường có nhu cầu đi tiểu đêm, nhất là thời khắc từ nửa đêm tới sáng sớm. Sau đó, đi tiểu cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn có cảm giác nước tiểu chưa hết nhưng mà vẫn còn trong bọng đái. Cuối cùng là rò rỉ nước tiểu hoặc bí tiểu. Nhiễm trùng là một biến chứng thường gặp. Khám trực tràng thấy một khối to, mềm hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chuẩn xác cần phải siêu âm. Ở thời đoạn đầu, các lang y thường cho điều trị nội khoa bằng các loại thuốc như tadenan, xatral, crila (chiết xuất từ cây TNHC). Lúc bệnh chuyển sang thời đoạn nặng hoặc có biến chứng thì cần phải can thiệp ngoại khoa. Hiện nay, phẫu thuật được nhiều lang y ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường mồm.
Ung thư TLT: Lúc bị ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào ung thư tăng trưởng rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosterone (hormone sinh dục nam). Trái lại, sự tăng trưởng tế bào ung thư sẽ bị ức chế nếu tinh hoàn bị cắt bỏ. Ung thư tuyến tụy ít phổ quát hơn so với phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Các triệu chứng bao gồm: tiểu đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn cương dương… Chỉ 1/3 số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Ung thư cổ tử cung thường di căn tới xương và các hạch bạch huyết. Lúc đó, người bệnh thường bị đau nhức xương, thường ở các đốt sống, xương chậu hoặc xương sườn. Ung thư cổ tử cung di căn tới đốt sống có thể chèn lấn tủy sống, gây yếu chân, đại tiểu tiện ko tự chủ. Để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu mức PSA trên 40 nanogram / ml thì nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, mức PSA có thể tăng lên lúc bị nhiễm vi khuẩn, lúc khối u TLT trên 60g. Vì vậy, để chẩn đoán xác định, cần sinh thiết tuyến tiền liệt lúc thăm khám trực tràng phát hiện một khối to, cứng, bề mặt ko phẳng phiu với các triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo thời đoạn bệnh, di căn nhưng mà lang y sẽ cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
[rule_{ruleNumber}] [box type=”note” align=”” class=”” width=””]
Tuyến tiền liệt (TLT) là một cơ quan nằm bên dưới bọng đái, sau xương mu, trước trực tràng và xung quanh niệu đạo của tuyến tiền liệt. Bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Vì tuyến tiền liệt nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy lúc đưa ngón tay vào lỗ hậu (thuật ngữ y khoa còn gọi là “khám trực tràng”). TLT có hình dạng nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4cm, cao 3cm, dày 2,5cm, khối lượng trung bình 15-20 gam ở người lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ tuổi từ 40 tới 50 tuổi có tỉ lệ phì đại tuyến tiền liệt khoảng 90%.
Công dụng của tuyến tiền liệt là gì?
Công dụng chính của tuyến tiền liệt là tiết ra tinh dịch và đổ vào niệu đạo trong xoang tuyến tiền liệt. Dịch âm đạo có màu trắng sữa với độ pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo) nên có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho tới lúc thụ tinh. Lượng dịch do tuyến tiền liệt tiết ra chiếm khoảng 30% lượng dịch tiết ra trong mỗi lần giao phối. Dịch bạch huyết chứa nhiều axit xitric, ion canxi, nhiều loại men đông máu, pro-fibrinolysin, prostaglandin. Các enzym đông máu của TLT sẽ tác động lên fibrinogen để làm đông nhẹ tinh dịch trong đường sinh dục nữ, do đó giữ cho tinh trùng ở gần cổ tử cung. Sau 15 – 30 phút, tinh dịch sẽ bị loãng trở lại nhờ men fibrinolysin có trong dịch tinh và tinh trùng hoạt động trở lại. Prostaglandin của tinh dịch cũng như dịch của túi tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động ống dẫn trứng giúp tinh trùng vận chuyển trong đường sinh dục nữ và chất dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động tình dục.
Các bệnh thường gặp của TLT
Viêm tụy cấp tính: Nhiễm trùng đường tiết niệu thường do một số cùng loại vi khuẩn gây nhiễm trùng bọng đái gây ra. Các vi khuẩn đó là E.Coli, Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể lây lan từ đường máu tới tuyến tiền liệt, hoặc từ cơ quan phụ cận, hoặc do quá trình sinh thiết tuyến tiền liệt ko được đảm bảo vô trùng. Bệnh thường gặp trong tuần tuần trăng mật giữa chú rể và cô dâu do sinh hoạt tình dục quá độ. Bệnh phát khởi đột ngột với biểu thị sốt, ớn lạnh, đau tức vùng thắt lưng và tầng sinh môn (vùng giữa bộ phận sinh dục ngoài và lỗ hậu), kèm theo tiểu khó, tiểu nhiều lần trong ngày. Ngoài ra, tiểu máu có thể xuất hiện ở đầu bãi, cuối bãi hoặc toàn bãi. Thầy thuốc sẽ yêu cầu xét nghiệm nước tiểu để tìm tế bào bạch huyết cầu và vi khuẩn để giúp chọn loại kháng sinh thích hợp. Thông thường, thuốc kháng sinh được dùng dưới dạng fluoroquinolon (ciprofloxacin), sau đó là thuốc chống viêm như serratiopeptidase. Bệnh nhân được ngơi nghỉ, truyền nhiều nước và dùng thuốc giảm đau. Nếu bệnh nhân bị suy giảm miễn nhiễm, chẳng hạn như đang điều trị hóa chất, hoặc bị nhiễm HIV / AIDS, bệnh nhân cần được nhập viện ngay ngay lập tức.
Viêm tụy mãn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với thời đoạn cấp tính. Người bệnh ko sốt, ko đau lúc xuất tinh và tinh dịch có máu. Đi tiểu khó, đi tiểu vài lần trong ngày, đôi lúc có dịch chảy ra từ đầu dương vật. Điều trị bằng thuốc kháng sinh như fluoroquinolon (ciprofloxacin, levofloxacin, moxifloxacin) liên kết với thuốc chống viêm ko steroid như diclofenac.
Phì đại lành tính của tuyến tiền liệt: Ở trẻ em, TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì, TLT mở màn tăng trưởng kích thước tối đa ở tuổi 20 và giữ nguyên kích thước cho tới tuổi 50. Từ 50 tuổi trở đi, tuyến tiền liệt phì đại theo thời kì và gây phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Bệnh tăng trưởng từ từ hoặc đột ngột với các biến chứng như nhiễm trùng, bí tiểu, suy thận. Phì đại lành tính tuyến tiền liệt ko trở thành ung thư nhưng có thể là ung thư xâm lấn với tỉ lệ 10 – 25%. Ở thời đoạn đầu, người bệnh thường có nhu cầu đi tiểu đêm, nhất là thời khắc từ nửa đêm tới sáng sớm. Sau đó, đi tiểu cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn có cảm giác nước tiểu chưa hết nhưng mà vẫn còn trong bọng đái. Cuối cùng là rò rỉ nước tiểu hoặc bí tiểu. Nhiễm trùng là một biến chứng thường gặp. Khám trực tràng thấy một khối to, mềm hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chuẩn xác cần phải siêu âm. Ở thời đoạn đầu, các lang y thường cho điều trị nội khoa bằng các loại thuốc như tadenan, xatral, crila (chiết xuất từ cây TNHC). Lúc bệnh chuyển sang thời đoạn nặng hoặc có biến chứng thì cần phải can thiệp ngoại khoa. Hiện nay, phẫu thuật được nhiều lang y ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường mồm.
Ung thư TLT: Lúc bị ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào ung thư tăng trưởng rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosterone (hormone sinh dục nam). Trái lại, sự tăng trưởng tế bào ung thư sẽ bị ức chế nếu tinh hoàn bị cắt bỏ. Ung thư tuyến tụy ít phổ quát hơn so với phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Các triệu chứng bao gồm: tiểu đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn cương dương… Chỉ 1/3 số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng. Ung thư cổ tử cung thường di căn tới xương và các hạch bạch huyết. Lúc đó, người bệnh thường bị đau nhức xương, thường ở các đốt sống, xương chậu hoặc xương sườn. Ung thư cổ tử cung di căn tới đốt sống có thể chèn lấn tủy sống, gây yếu chân, đại tiểu tiện ko tự chủ. Để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu mức PSA trên 40 nanogram / ml thì nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, mức PSA có thể tăng lên lúc bị nhiễm vi khuẩn, lúc khối u TLT trên 60g. Vì vậy, để chẩn đoán xác định, cần sinh thiết tuyến tiền liệt lúc thăm khám trực tràng phát hiện một khối to, cứng, bề mặt ko phẳng phiu với các triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo thời đoạn bệnh, di căn nhưng mà lang y sẽ cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến
[rule_3_plain]#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến
Tiền liệt tuyến (TLT) là một cơ quan nằm dưới bọng đái, sau xương mu, trước trực tràng và bao phủ xung quanh niệu đạo tiền liệt. Bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Do TLT nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy được lúc đưa ngón tay vào trong lỗ hậu (thuật ngữ y khoa còn gọi là “thăm trực tràng”). TLT có hình nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4cm, cao 3cm, dày 2,5cm, nặng trung bình 15 – 20gram ở người lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi từ 40 – 50 trở lên có tỉ lệ phì đại TLT khoảng 90%.
Tiền liệt tuyến có tính năng gì?
TLT có tính năng chính là tiết ra tinh dịch rồi đổ vào niệu đạo ở xoang tiền liệt. Dịch TLT có màu trắng đục với độ pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo), nhờ vậy có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho tới lúc thụ tinh. Lượng dịch do TLT bài xuất chiếm khoảng 30% thể tích dịch phóng ra trong mỗi lần giao phối. Dịch TLT chứa nhiều acid citric, ion canxi, nhiều loại enzym đông đặc, tiền fibrinolysin, prostaglandin. Các enzym đông đặc của TLT sẽ tác dụng vào fibrinogen làm đông nhẹ tinh dịch ở đường sinh dục nữ, do vậy có thể giữ tinh trùng nằm sát cổ tử cung. Sau 15 – 30 phút, tinh dịch sẽ được làm loãng trở lại nhờ enzym fibrinolysin có trong dịch TLT và tinh trùng hoạt động trở lại. Prostaglandin của dịch TLT cũng như dịch của túi tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động vòi trứng giúp tinh trùng vận chuyển trong đường sinh dục nữ và dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động tình dục.
Các bệnh hay gặp của TLT
Viêm TLT cấp tính: Là tình trạng nhiễm khuẩn TLT thường do một số vi khuẩn tương tự gây nhiễm khuẩn bọng đái. Các vi khuẩn đó là E.Coli, Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể từ đường máu lan tới TLT, hoặc từ cơ quan kế cận, hoặc do sinh thiết TLT ko đảm bảo vô khuẩn. Bệnh thường hay gặp trong tuần tuần trăng mật giữa tân lang và tân nương do hoạt động tình dục quá nhiều. Bệnh phát khởi đột ngột với sốt, ớn lạnh, đau vùng lưng dưới và vùng tầng sinh môn (vùng nằm giữa bộ phận sinh dục ngoài và lỗ hậu), kèm theo tiểu khó, tiểu lắt nhắt nhiều lần trong ngày. Thêm vào đó có thể tiểu máu đầu bãi, cuối bãi hoặc toàn bãi. Thầy thuốc sẽ cho làm xét nghiệm nước tiểu để tìm bạch huyết cầu, vi khuẩn giúp chọn lựa kháng sinh thích hợp. Thường kháng sinh được cho là nhóm fluoroquinolon (ciprofloxacin), kèm theo là một thuốc kháng viêm như serratiopeptidase. Bệnh nhân được cho ngơi nghỉ, uống nhiều nước và thuốc giảm đau. Nếu bệnh nhân ở trong tình trạng suy giảm miễn nhiễm như đang được hóa trị liệu, hay nhiễm HIV/AIDS, cần cho bệnh nhân nhập viện ngay.
Viêm TLT mạn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với thời đoạn cấp tính. Bệnh nhân ko sốt, đau lúc phóng tinh và tinh dịch có máu. Tiểu khó, tiểu ít một nhiều lần trong ngày, đôi lúc có chảy dịch ở đầu dương vật. Điều trị bằng kháng sinh như nhóm fluoroquinolon (ciprofloxacin, levofloxacin, moxifloxacin) liên kết với một kháng viêm ko steroid như diclofenac.
U phì đại lành tính TLT: Ở trẻ em, TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì, TLT mở màn tăng trưởng đạt tới kích thước tối đa vào lúc 20 tuổi và giữ nguyên kích thước cho tới năm 50 tuổi. Kể từ tuổi 50 trở đi, TLT to ra theo thời kì và gây ra bệnh u phì đại lành tính TLT. Bệnh tăng trưởng từ từ hay đột ngột với những biến chứng như nhiễm khuẩn, bí tiểu, suy thận. U phì đại lành tính TLT ko có hiện tượng ung thư hóa nhưng có thể bị ung thư xâm nhiễm với tỉ lệ từ 10 – 25%. Ở thời đoạn đầu, bệnh nhân hay tiểu lắt nhắt vào đêm tối, nhất là từ nửa đêm tới sáng sớm, mỗi lần đi tiểu phải rặn. Sau đó đi tiểu lắt nhắt cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn còn có cảm giác nước tiểu chưa ra hết nhưng mà còn đọng lại trong bọng đái. Cuối cùng là tiểu ri rỉ hoặc bí tiểu. Nhiễm khuẩn là biến chứng hay gặp. Thăm trực tràng thấy một khối u to, hơi mềm hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chuẩn xác, cần cho bệnh nhân siêu âm. Trong thời đoạn đầu, thầy thuốc thường cho điều trị nội khoa với các thuốc như tadenan, xatral, crila (chiết xuất từ lá cây trinh nữ vương cung). Lúc bệnh tiến triển nặng hoặc biến chứng, cần can thiệp phẫu thuật. Hiện nay, phẫu thuật được nhiều thầy thuốc ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo.
Ung thư TLT: Lúc ung thư TLT xảy ra, các tế bào ung thư tăng trưởng rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosteron (nội tiết tố sinh dục nam). Trái lại, sự tăng trưởng của tế bào ung thư sẽ bị ức chế nếu cắt bỏ tinh hoàn. Ung thư TLT ít gặp hơn u phì đại lành tính TLT. Triệu chứng bao gồm: đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn tính năng cương… Chỉ 1/3 bệnh nhân là có triệu chứng lâm sàng. Ung thư TLT hay di căn tới xương và hạch limpho. Lúc đó, bệnh nhân thường bị đau xương, hay gặp ở xương đốt sống, khung chậu hoặc xương sườn. Ung thư TLT di căn tới đốt sống có thể chèn lấn dây sống khiến yếu chân, tiểu tiện và đi ngoài ko tự chủ. Để chẩn đoán ung thư TLT có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu nồng độ PSA trên 40 nanogam/ml, thì nghi ngờ ung thư TLT. Tuy nhiên, nồng độ PSA có thể tăng lúc nhiễm khuẩn, lúc khối u TLT trên 60g. Vì vậy, để chẩn đoán vững chắc, cần sinh thiết TLT lúc thăm trực tràng thấy một khối u to, cứng, bề mặt lổn nhổn cùng với triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo thời đoạn bệnh, di căn nhưng mà thầy thuốc sẽ cho cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến
[rule_2_plain]#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến
[rule_2_plain]#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến
[rule_3_plain]Nguồn: sex-shoponline.net
Xem thêm Video clip hót nhất hôm nay: Video Clip Hót
Xem những sản phần đồ chơi tình dục hót nhất 2022: shop đồ chơi tình dục
#Bệnh #của #tiền #liệt #tuyến